Năng lực cảm hiểu thơ tự do nói riêng và thơ nói chung là khả năng phát hiện ra cái hay của tác phẩm. Để có thể phân tích, cắt nghĩa, bình giá một tác phẩm thơ, trước hết giáo viên phải làm chủ được thi pháp thể loại đồng thời cảm hiểu được cái hay của tác phẩm ấy. Nhưng thường là vẻ đẹp của tác phẩm không lộ rõ mà thường ẩn khuất trong ngôn ngữ, nhịp điệu, hình ảnh, trong những khoảng trắng của thơ. Thực tế nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc lựa chọn cái hay, nét độc đáo, “điểm sáng thẩm mĩ” của tác phẩm thơ tự do để hướng dẫn học sinh phân tích, cắt nghĩa.
Vì những lí do trên nên cần phân tích tác phẩm thơ tự do dựa trên những hiểu biết về đặc trưng thi pháp của thể loại để góp một phần nhỏ tạo nên hiệu quả cao hơn trong việc giảng dạy
1. Cấu trúc thế giới hình tượng trong thơ tự do
Hình tượng nghệ thuật là phương thức để nhà thơ nhận thức và phản ánh đời sống. Trong sáng tác văn học, hình tượng là toàn bộ thế giới khách quan được nhà thơ chắt lọc, phản ánh vào tác phẩm của mình. Để xây dựng hình tượng trong thơ, nhà thơ phải đi từ chi tiết, hình ảnh của cuộc sống đến tứ thơ, ngôn ngữ thơ. Cấu trúc hình tượng trong thơ tự do đặc biệt chú ý đến tứ thơ. Giữa tứ thơ và thể thơ có một mối quan hệ mật thiết. Nhà thơ Huy Cận có lần viết: “Không phải tứ thơ nào cũng có thể khuôn vào bất cứ hình thức thể loại nào. Trong đời làm thơ của tôi, tôi phải thay áo mấy lần cho thơ, phải đổi thể loại thì tứ thơ mới hiện ra được”. Như vậy tứ thơ phải đầu thai đúng thể loại thì mới làm sống dậy thế giới hình tượng thơ. Là một thể thơ mang đậm cảm xúc chủ quan, trong thơ tự do, tứ thơ bao giờ cũng được nảy sinh trên cơ sở cảm xúc và có chức năng biểu hiện cảm xúc ấy qua hình ảnh, ngôn ngữ nghệ thuật. Do vậy, tiếp cận tác phẩm thơ tự do là cần phải xác định tứ thơ và sự vận động của hình tượng thơ, có như vậy mới có thể chiếm lĩnh được toàn bộ bài thơ trong tính chỉnh thể của nó.

Học thơ tự do với những phương pháp riêng
2. Nhịp điệu
Thơ là một thể loại thể hiện nhịp điệu tâm hồn và nhịp điệu cuộc sống một cách hữu hiệu nhất. Nhịp điệu cuộc sống là cơ sở để khơi gợi nhịp điệu cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ. Thường khi nói đến nhịp điệu thơ, chúng ta thường nghĩ tới cách tổ chức câu thơ đoạn thơ, tiết tấu, âm thanh… trong bài thơ. Tuy nhiên nhịp điệu không thuần túy chỉ là hình thức ngắt nhịp ngôn từ có tính chất hình thức mà còn là nhịp điệu của cảm xúc, nhịp điệu bên trong của tâm hồn nhà thơ. Thơ tự do tạo điều kiện nhiều nhất để thơ có vẻ riêng về nhịp điệu. Vẻ riêng trong nhịp điệu của thơ tự do có sự hòa điệu giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan, do vậy nó vừa là nhịp điệu của hình thức bên ngoài, vừa là nhịp điệu bên trong, là nhịp điệu của cảm xúc, của những rung động của nhà thơ trước bức tranh đời sống. Do vậy, nhịp điệu trong thơ tự do không có sự định tính trước như trong thơ cách luật mà luôn có sự co giãn theo cảm xúc chủ quan của nhà thơ.
3. Ngôn ngữ thơ tự do
Ngôn ngữ là nơi kí thác của hình tượng thơ. Ngôn ngữ thơ là một kiểu cấu tạo đặc biệt của ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ thơ tự do và ngôn ngữ thơ cách luật đều là ngôn ngữ nghệ thuật, nhưng điểm khác nhau là ở chỗ, nếu ngôn ngữ thơ cách luật là ngôn ngữ phải tuân theo vần luật, thanh bằng trắc thì ngôn ngữ thơ tự do gần hơn với ngôn ngữ, lời nói của đời thường, ngôn ngữ văn xuôi. Có nghĩa là ngôn ngữ thơ tự do mang vẻ đẹp giản dị, chân chất, mang hơi thở của đời sống. Điều này xuất phát từ chỗ thơ tự do luôn có xu hướng đi gần về với cuộc sống.
Tuy nhiên ngôn ngữ thơ tự do gần gũi chứ không phải là ngôn ngữ đời thường, bởi đó là thứ ngôn ngữ đã được chắt lọc, được kết tinh từ cuộc sống, là thứ ngôn ngữ được viết ra từ độ chín của cảm xúc. Do vậy nó luôn đòi hỏi phải có độ căng của cảm xúc, chứa đựng những âm vang của sự sống.
Thơ tự do không phải là một hình thức định trước trong quá trình sáng tác mà đó là sự tìm đến tất yếu khi tâm hồn nhà thơ đạt đến độ nhuần chín, ở đó độc giả như được trải lòng trong những trạng thái cảm xúc tế vi của người nghệ sĩ. Không chỉ tự do trong hình thức câu thơ, thể thơ này còn kéo dài biên độ của đoạn thơ, bài thơ. Đó là khi cái tôi có nhu cầu bộc bạch đến cạn cùng nguồn cảm xúc thẩm mĩ, khi tiếng nói bức bối của chủ thể trữ tình gần như không thể kiềm nén.